Phân tích hình ảnh nồi cháo cám trong tác phẩm của Kim Lân

Đề: Phân tích hình ảnh bát cháo hành trong tác phẩm Nhặt vợ của Kim Lân.

Phân công

Vợ anh đã nhặt được nó – dường như cái tên đã nói lên tất cả. Tác phẩm được nhà văn Kim Lân dựng lên bằng tấm lòng cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người đói khổ, lầm than trong nạn đói khủng khiếp năm 1954. Có những “hồn ma” lang thang, lặng lẽ đi bên cạnh những xác chết đói khát, không ai chôn cất. Nhưng bất chấp, tác phẩm vẫn thể hiện niềm tin và khát vọng sống của con người trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Đằng sau cái kết của câu chuyện, người đọc vẫn không quên bi kịch chọn vợ của hai con người khốn khổ: Tràng và Thị. Đồng thời, hình ảnh nồi cháo cám mà “mẹ chồng” “xử đẹp” “cô con dâu” mới ngày đầu gây thương nhớ, xót xa cho người đọc.
Tràng và Thị thấy mình đang ở giữa cơn đói khủng khiếp, mọi người trong xóm chết đói từ từ. Vượt qua tất cả, họ tự dẫn mình qua nhiều xác chết bị xiềng xích bên đường. Dù biết rằng số phận của mình cũng rất có thể trở thành một trong những xác chết này, nhưng khát khao được sống và hạnh phúc đã thôi thúc hai kẻ khốn khổ. Và sau bữa cơm bốn bát bánh chưng, bữa no bữa đói, chị Tráng lại trở về với gia đình Tràng, đối mặt với cái đói thê thảm như bao người dân khác trong làng. Bữa “tiệc dâu mới” tạm gọi là “nặng nề” khi có một nồi cháo loãng với bát rau chuối thái sợi và một nồi cháo cám “ngon lành” mà bà Cô nấu.
Nồi cháo này là hình ảnh chân thực và cảm động nhất về nạn đói khủng khiếp mà người dân đang phải gánh chịu. Những người định cư bắt người dân phải nhổ lúa và trồng đay. Họ muốn phá hủy đường sống của mọi người. Không cần bắn, dân ta luôn chết dưới tay chúng. Chết dần, chết mòn vì đói và rét. Vì vậy, cháo cám lúc này trở thành món ăn “sang chảnh”, rất hợp lý để “đãi con dâu” ngày đầu về “nhà chồng”. Nhiều nhà trong xóm thậm chí không có cháo cám để ăn.

Phân tích khổ thơ thứ 6 của bài thơ Việt Bắc

Nồi cháo cám Đó là vị cháo đắng hay vị đắng của cuộc đời khiến người ta phải lặng lẽ nuốt trôi? Nếu là một nghệ sĩ, có lẽ Kim Lân sẽ vẽ một bữa ăn thịnh soạn cho gia đình Tràng, nhưng ông chỉ là một nhà văn, một nhà văn của hiện thực, của một người nông dân bất hạnh nên chỉ có thể tái hiện một cách chân thực về khung cảnh tang thương lần này. Kim Lân viết rằng nhiều nhà trong làng thậm chí không có cháo cám để ăn. Câu nói không chỉ động viên đôi vợ chồng trẻ mà còn cho thấy sự thật bi thảm về nạn đói đang hoành hành khắp làng, khắp xóm. Nhiều người đã phải bỏ mạng vì không có thức ăn. Vì vậy, có được một nồi cháo cám là một điều vô cùng hạnh phúc và may mắn.
Và cho dù nồi cháo này có vị đắng, dẫu chứa đựng nỗi đau ngột ngạt, tủi hổ tột cùng thì nó vẫn chứa đựng biết bao công ơn của người mẹ già đã gần đất xa trời. Sau ngần ấy năm cuộc đời, hơn ai hết cô hiểu rõ tình cảnh khó khăn hiện tại của gia đình. Bà xót xa, tủi thân khi chứng kiến ​​cảnh con trai mình đi lấy chồng. Giữa lúc đói, lo có thức ăn vào miệng đã là một bài toán khó rồi. Bây giờ Trang đưa con về, không biết con có sống được qua “cái nghĩa” đó không. Người mẹ già tội nghiệp vẫn thổn thức biết bao nhiêu dịp. Nhưng chính mẹ là người gieo những mầm hy vọng mới cho các con. Nồi cháo cám đã được anh chuẩn bị từ trước. Không phải cô không biết đến vị đắng của âm thanh, nhưng cô vẫn “hoa mắt” và thốt lên: “Chè choè đây rồi”, “ngon sang”. Rồi đưa miếng cháo vào miệng ai cũng nghẹn ngào, lặng người. Có sự cam chịu và thấu hiểu âm thầm nhen nhóm trong lòng mỗi người. Tất cả mọi người đều hiểu anh ta đang ăn gì và nuốt chửng thứ gì, nhưng không ai cứng họng. Lòng mẹ chùng xuống. Nhưng thay vì than thở, bà nói về một tia hy vọng cho các con: “Khi nào tôi có tiền, tôi sẽ mua một cặp gà. Tôi nghĩ đầu bếp làm chuồng gà cũng tiện. Này, nhìn lại, không bao lâu đã có một bầy gà cho xem… ”. Đói với thực tại phút chốc bị lãng quên.
Và sau món cháo đắng ngày xưa, gia đình lại một lần nữa tin tưởng và hy vọng vào ngày mai tươi sáng khi cảnh tượng đồng nát bươm của Nhật hiện ra trước mắt. Và cuối truyện, hình ảnh lá cờ đỏ thắm làm dịu đi vị đắng của cháo cám. Mọi người đều tin rằng ngày mai sẽ khác, tương lai sẽ tốt đẹp hơn, nạn đói sẽ không còn.
Vậy nên nồi cháo cám dù đắng cay, dù ngộp thở, dù thân phận đau thương của cảnh nghèo đói thê thảm vẫn nung nấu trong lòng mỗi người niềm tin và hy vọng đổi đời trong tương lai. Đồng thời, đó cũng là tấm lòng của tác giả đối với những kiếp người dao động trước hoàn cảnh, số phận.

nghĩ về tuổi hai mươi

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *